Biển Đông: Căn bệnh 'ung thư bành trướng' của Trung Quốc Tình hình Biển Đông: Trung Quốc cố tình vu cáo Việt Trời Xin giới thiệu cùng độc giả bản lược dịch bài báo. Một số chi tiết và thuật ngữ có thể không chính xác nhưng người dịch vẫn để nguyên để độc giả hiểu thêm về cách nhìn của tờ báo Nga về Sự tình này. Lời dẫn của bài viết: Việt Nam đã giành được thắng lợi tuy nhỏ nhưng quan trọng trước Trung Quốc trong cuộc tranh chấp quyền kiểm tra các đảo tranh chấp. Xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam xung quanh các đảo vắng tanh nhưng giàu tài nguyên dầu mỏ và khí đốt lại trở thành căng thẳng. Quá khứ đã có nhiều trận chiến giữa hai bên nhằm giành quyền kiểm tra các hòn đảo này , và lần này cuộc đối chọi không chỉ dừng ở các tuyên bố rắn rỏi và các cuộc tập trận mang thuộc tính phô trương. Vai trò của Mỹ trong cuộc xung đột này như thế nào và liệu nó ( xung đột ) có đe dọa ích lợi của Nga hay không? Báo “Vzgliad” sẽ phân tách Sự tình này. Quân nhân Hải quân Việt Nam. ( Ảnh từ bài báo ) Sau khi lược qua diễn biến sự việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các vụ đụng độ ngày 7/5 , báo Vzgliad kết luận: “Trong bất kỳ trường hợp nào thì thắng lợi trong vòng đấu này đã thuộc về phía Việt Nam. Nhưng chắc gì đây đã là vòng đấu cuối cùng?”. Báo này viết: “Thực ra , giàn khoan này được cử đến đây để tăng cường cho một giàn khoan khác của tập đoàn dầu khí nhà nước Trung Quốc đã có mặt tại lãnh hải này trước đó. Hà Nội đã yêu cầu Trung Quốc phải rút giàn khoan này vì tuy là nó đã Mạo phạm chủ quyền của mình và Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế. Một sự thật không thể tranh cãi: về mặt địa lý quân đảo Hoàng Sa nằm ở phần cuối thềm đất liền của Việt Nam. Nhưng Trung Quốc khăng khăng gác canh lý lẽ của mình rằng khu vực giàn khoan tiến hành dò hỏi nằm trong vùng lãnh hải của Trung Quốc , và như vậy Việt Nam đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Ai đúng ai sai – không quá quan trọng. Quan trọng là ai gác canh được vị thế của mình”. Tàu Trung Quốc hung hãn , đâm thẳng vào tàu CSB Việt Trời Máu và cát Trung Quốc có tranh chấp lãnh thổ với hầu hết các lân bang ở 2 biển là Hoa Đông và Biển Đông. Nhưng trong tất thảy các tranh chấp đó thì tranh chấp với Việt Nam có quy mô lớn nhất , kịch tính nhất , từ nhiều thế kỷ. Giá dụ , đầu năm nay là dịp kỷ niệm một sự kiện – tròn 40 năm tính từ ngày các hòn đảo của quần đảo Hoàng Sa Kề cận giàn khoan đang gây bê bối này hoạt động đã bị Trung Quốc tước đoạt sau sự kiện được gọi là “cuộc chiến vì Tây Sa”. Trước đó , trong 15 năm đến thời điểm đó , Trung Quốc đã tiến hành nhiều chiến dịch nhằm thôn tính quần đảo tranh chấp này , nhưng đã không Thành tựu. Một trong các hòn đảo tranh chấp nói trên là đảo Phú Lâm với diện tích khoảng 2 km2 là đảo có người ở: Tại đây Trung Quốc bố trí một đơn vị quân đội đồn trú , một trung tâm cứu hộ và thậm chí cả phi truờng. Trên các hòn đảo còn lại vẫn không có gì đổi thay – chỉ có Khói bụi do củi , các bụi cây và cát. Trên quần đảo còn lại – quần đảo Trường Sa , hiện có 4 phi truờng , nhưng Chỗ u ám ở luôn luôn. Trong thời gian thủy triều rút , quần đảo này được tính là có 400 hòn đảo , nhưng trung bình chỉ có 100 , các đảo còn lại bị ngập dưới nước. Nhưng những tranh chấp xung quanh quần đảo này đầy kịch tính: ngoài Việt Nam và Trung Quốc còn có các nước khác đòi hỏi chủ quyền khác là Philippines , Malaysia , Brunei và Đài Loan ( còn Trung Quốc thì tuyên bố chủ quyền với chính Đài Loan ). Năm 1988 , tại quần đảo này lại xảy ra một trận hải chiến ác liệt , nhưng ít lưu huyết hơn trận hải chiến ở Hoàng Sa như đã được miêu tả ở trên. Đại bộ phận các đảo vẫn nằm dưới sự kiểm tra của Việt Nam. Cách đây không lâu , lại bắt đầu một đợt đối chọi mới , lại với Trung Quốc. Sau nhiều Bắt đầu làm phá bĩnh ( của phía Trung Quốc như cắt cáp của Việt Nam ) , Việt Nam đã cho tiến hành các cuộc tập trận ( trên biển ) , tiếp theo là các vụ biểu tình tự phát La ó , các bàn cãi ngoại giao , cuộc chiến của các hacker và thậm chí là thông qua kế hoạch động viên. Đối với Việt Nam – quần đảo này là tượng trưng của tinh thần yêu nước. Dầu mỏ và cá Còn bây giờ , xin đề cập đến Sự tình vì sao xung quanh các hòn đảo trơ trụi này lại nhiều tranh chấp đến như vậy. Một thời gian dài các hòn đảo này được đánh giá là một bàn đạp quân sự quan trọng , rất cần để kiểm tra Biển Đông. Ngoài ra , lãnh hải này ( đặc biệt là khu vực quanh Trường Sa ) có một ý nghĩa rất quan trọng đối với nghề cá. Nhưng khía cạnh quan trọng nhất là dầu mỏ và khí đốt. Cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa được các chuyên gia đánh giá là khu vực có triển vọng nhất , tuy việc dự báo trữ lượng cụ thể chưa thể thực hiện được vì nhiều lý do. Trung Quốc có các dự báo ( về trữ lượng dầu mỏ ) tương đối lạc quan , còn các chuyên gia Phương Tây thì có các đánh giá dè dặt hơn. Nhưng tất thảy đều thống nhất ở một điểm – tại khu vực này có dầu , và thậm chí là có nhiều dầu. Cách đây mấy năm , Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với khoảng 80% diện tích Biển Đông. Rất sáng sủa là những tính toán của Trung Quốc xuất phát từ vựng trí của đảo. Nói một cách đơn giản , nếu Trung Quốc tuyên bố các đảo trên ( và không chỉ các đảo đó ) là của mình nhằm cái đích lãnh thổ xung quanh các đảo đó cũng thuộc về Trung Quốc và Cuối cùng là 80% diện tích Biển Đông như đã nói. Vụ này đã vấp phải dư luận La ó Dữ dội của các thanh thủy khu vực vì Biển Đông có vai trò khôn cùng quan trọng đối với giao tiếp thương mại của các nước đó - tổng kim ngạch thương mại của họ đạt gần 5.000 tỷ USD một năm. Khi phản hồi các công hàm La ó , Trung Quốc tuyên bố sẽ không gây khó khăn cho việc tự do thương mại và sự tự do hàng hải trên các khu vực “lãnh hải” của Trung Quốc. Tuy nhiên , tình huống này đặt ra một vấn đề: nếu quá khứ , việc tự do hàng hải ( của các nước ) là việc đương nhiên và không thèm phải bàn cãi , thì từ này , có được điều đó là nhờ “thiện chí” của Trung Quốc??? Còn một chi tiết rất quan trọng nữa: Trung Quốc khăng khăng La ó việc triệu tập một hội nghị với sự dự khán của tất thảy các nhà nước liên đới để xem xét những Sự tình trên Biển Đông. Lý do chính khiến Trung Quốc có thái độ như vậy - đó là dự phòng trường hợp tất thảy các bên ( liên hệ ở khu vực ) cùng gây sức ép dẫn đến sự can dự không thể tránh khỏi của một thế lực thứ ba ( trước hết là Mỹ ). Giải quyết xung đột riêng lẽ với từng bên đối với Trung Quốc dễ dàng hơn nhiều và chắc chắn hơn nhiều. Lý thuyết “hòa bình theo kiểu Trung Quốc” tuyệt đối có cơ sở trong những tính toán như vậy. Nếu hội thoại song phương , Trung Quốc trong một chừng mực nào đó có thể chấp thuận thỏa hiệp , nhưng những thỏa hiệp đó chỉ mang thuộc tính hình thức , chứ tuyệt đối không hề quý báu thực tế. Một ví dụ: Đã có một số đề án về cùng khai thác và dò hỏi nguồn năng lượng tại các khu vực tranh chấp ( một trong số đó đã được ký kết với Việt Nam năm 1995 và được gọi là “mang thuộc tính lịch sử” , nhưng Trung Quốc dần dần biến các đề án đấy thành của riêng và những đối tác cùng tìm ( dự khán các đề án ) bị gạt Ra khỏi cửa lề ( có vẻ như nạn nhân tiếp theo của các đề án kiểu như vậy sẽ là Brunei ). Một yếu tố quan trọng nữa cần lưu ý- đó là ngôn ngữ được sử dụng trong các phát biểu ( của các bên về chủ quyền ) ngày càng rắn rỏi. Đương nhiên , nếu so với các Bắt đầu làm xung đột quân sự thật sự những năm 70 thì đây chưa là gì. Nhưng phải như 15- 20 năm quá khứ chỉ cốt tử là các nhà ngoại giao vào cuộc thì những năm gần đây điểm nhấn cốt tử là các cuộc tập trận bắn đạn thật đi kèm với các tuyên bố mang tính đe dọa của giới tướng soái kiểu “chúng tôi đang chuyển từ phòng thủ bờ sang phòng thủ trên biển”. Còn từ 01/01/2013 , Bắc Kinh cho phép cảnh sát đảo Hải Nam “khám xét và kiểm tra các tàu ngoại bang xâm nhập bất hợp pháp lãnh hải Biển Đông của Trung Quốc”. Tuy Trung Quốc chưa sử dụng quyền này lần nào nhưng bản thân lời đe dọa đó đã mang nhiều ý nghĩa. Nga và Mỹ Đối với Washington , việc Trung Quốc ngày càng mạnh rõ ràng không phải là một tin mừng cho nên trong các tranh chấp ở Trường Sa đã ủng hộ Philippines là cốt tử và nghiêng về phía Đài Loan ( một trong các phi truờng nhỏ trên các đảo đó do Đài Loan xây dựng ). Chính Philippines là nước khởi kiện Trung Quốc trong phạm vi Công ước liên hiệp quốc về luật biển. Cũng chính Philippines , được sự tương trợ của Mỹ , đã bắt đầu việc hiện đại hóa chưa từng có tiền lệ Hải quân của mình. Đôi lúc Philippines đẩy đuổi các tàu Trung Quốc ra khỏi khu vực các hòn đảo , nhưng tranh chấp cốt tử vẫn là với Việt Nam , và Tấm giấy ghi tên tuổi chính của những tuyên bố về “phòng thủ chủ động các đảo của Philippines” là Việt Nam. Việt Nam đối với Mỹ không phải là một nhà nước Hòa mục , nhưng trong Sự tình Hoàng Sa dễ thường Mỹ đứng về phía Hà Nội , hay nói chính xác hơn – không đứng về phía Trung Quốc trong những tham vọng bành trướng của nước này. Điều này đã được biểu hiện rõ qua tuyên bố của người phát ngôn Bộ ngoại giao Mỹ J.Psaki khi bà này đã gọi các Bắt đầu làm của Trung Quốc là khiêu khích và không xúc tiến duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực. Còn trước đó , trợ lý ngoại trưởng phụ trách Đông Á và khu vực thái bình Dương D.Russel đã tuyên bố là giới lãnh đạo Trung Quốc “không nên nghi ngờ” về sự sẵn sàng của Mỹ trong việc gác canh các đồng minh châu Á của mình nếu Bắc Kinh sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ. Tình huống này có vẻ khá thú vị: mối giao tiếp giữa Hà Nội và Bắc Kinh nói chung là ưu tú nhiều so với mối giao tiếp Hà Nội –Washington. Đã có thời gian “mô hình Trung Quốc” đã được Việt Nam vận dụng khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường , và Bắc Kinh không chỉ đơn giản là đối tác thương mại quan trọng mà là đối tác thương mại quan trọng mang thuộc tính sống còn của Việt Nam. Mặc dầu vậy , mối giao tiếp cũng không cản được Hà Nội khai thác và xây dựng đường ống dẫn khí từ các khu vực về đất liền. Nga cũng đang tăng cường sự có mặt của mình tại Biển Đông , nơi “Rosnheft” và “Gazprom” đang tiến hành dò hỏi. Chẳng những thế , mọi chỗ dựa về ngoại giao và pháp lý đều nhờ vào Việt Nam , một núi sông , ngoài tất thảy các yếu tố khác , còn là một người bạn cũ và đã qua thử thách , một khách hàng mua vũ khí chắc chắn và là một thành viên của đề án thành lập khu vực tự do thương mại trong mai sau. Mặt khác , Trung Quốc là đồng minh địa- chính trị quan trọng bậc nhất và là một đối tác kinh tế. Và như vậy , đối với các nhà ngoại giao Nga , xung đột Trung-Việt là một bãi mìn thật sự. Không thể làm mất lòng ai , không thể bàn cãi với ai , phải cân nhắc từng từ một. Ngày nay đã có một chút gì đó Thành tựu. Vào năm 2012 khi “Gazprom” tuyên bố về việc mua gói cổ phần dò hỏi 2 lô trên thềm đất liền của Việt Nam trên Biển Đông , phía Trung Quốc chỉ “bày tỏ hy vọng” là “các công ty của nước ở ngoài khu vực Biển Đông sẽ trọng và ủng hộ nỗ lực của các bên thật sự quan tâm đến việc giải quyết các tranh chấp bằng con đường đàm phán song phương ( Lưu ý – đàm phán song phương ).” Lê Hùng ( Lược dịch )
.
. quân nhân Hải quân Việt Nam. ( Ảnh từ bài báo ) . Tàu Trung Quốc hung hãn , đâm thẳng vào tàu CSB Việt Nam .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét